Có hay không một phong cách làm cha mẹ hiệu quả nhất?
- Family & Child Psychology
- 4 thg 12, 2024
- 8 phút đọc
Đã cập nhật: 14 thg 3
Tại sao cần có nhiều hơn nữa các nghiên cứu về việc nuôi dạy con cái trong bối cảnh Việt Nam? Tại sao không đơn giản là cứ dùng các lý thuyết ở "Tây phương" cho "xịn sò"?
"Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh"
Để giải thích một cách dân dã và dễ hiểu thì các cụ nhà mình có nói rằng "Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh" ý chỉ rằng mỗi gia đình sẽ có những vấn đề riêng của họ, và rất khó để tồn tại một tiêu chuẩn duy nhất.
Trong tâm lý học, các bạn có thể quen thuộc hoặc chưa biết, nhưng các nhà nghiên cứu từ lâu đã chú ý tới xu hướng này, vì thế chúng ta có các thuật ngữ chuyên ngành như: Tâm lý học dân gian (Folk Psychology), Tâm lý học xuyên văn hoá (Cross-cultural psychology), Tâm lý học văn hoá (Cultural psychology), Tâm lý học dân tộc (Enthnopsychology), và Tâm lý học bản địa (Indigenous Psychology).
Các nhà nghiên cứu trong những lĩnh vực này thừa nhận và hiểu một cách sâu sắc rằng 5 yếu tố sau sẽ có các tác động nhất định tới các khung khái niệm được sử dụng trong Tâm lý học, bao gồm:
Niềm tin dân gian,
Hiện tượng văn hoá,
Bối cảnh môi trường,
Cấu trúc xã hội,
Dòng chảy lịch sử.
Và sẽ gần như là bất khả thi nếu chỉ sử dụng một vài Lý thuyết duy nhất để (cố gắng) giải thích mọi hiện tượng tâm lý trong mọi bối cảnh khác nhau. Thậm chí, một xu hướng rất rõ ràng đã định hình trong Tâm lý học bản địa, đó là Giải thuộc địa (Decolonisation), bằng cách:
Thích nghi lại các Lý thuyết ngoại lai cho phù hợp với bối cảnh,
Phát triển các nghiên cứu từ bản địa và phục vụ cho việc giải quyết các vấn đề bản địa.

Vấn đề của "4 phong cách làm cha mẹ" theo sự phân chia của Diana Baumrind là gì?
Quay lại với vấn đề làm cha mẹ, một trong các lý thuyết nổi tiếng trong nghiên cứu về nuôi dạy con cái đó là Mô hình của Diana Baumrind được dịch ra dễ hiểu là "Phong cách làm cha mẹ". Mô hình này ban đầu được Baumrind phát triển vào khoảng năm từ 1968 tới 1971. Baumrind sử dụng cách tiếp cận phân loại theo đặc điểm (Parenting Traits) và chia cách nuôi dạy con cái ra làm 4 loại (ban đầu là 3) bao gồm:
Authoritarian parenting style: Phong cách độc đoán chính là những cha mẹ khăng khăng đòi hỏi sự vâng lời từ trẻ, sẵn sàng sử dụng hình phạt và thường ít khi thể hiện sự ấm áp đối với con cái của họ.
Authoritative parenting style: Phong cách dân chủ là các cha mẹ tôn trọng sự phát triển của trẻ, không ra lệnh và mong đợi sự tuân thủ ngay lập tức mà kiểm soát con cái bằng lý trí và sự ấm áp. Họ cũng khuyến khích sự phát triển tính tự chủ ở con cái họ. Những bậc cha mẹ này có thể cân bằng giữa sự yêu cầu ở con cái và sự hỗ trợ để con đạt được những yêu cầu đó.
Permissive parenting style: Phong cách nuông chiều để nói về những cha mẹ áp tuy là ấm áp và yêu thương nhưng ít kiểm soát con cái. Họ hiếm khi trừng phạt hoặc hạn chế con cái của họ cũng như không yêu cầu con trưởng thành. Thay vào đó, họ nuông chiều, và để con cái tự đưa ra hầu hết các quyết định. Giờ đi ngủ, quy tắc ứng xử và kỷ luật là điều không hề có trong những gia đình này.
Neglect parenting style: Phong cách thờ ơ - bỏ mặc là những cha mẹ không tham gia vào quá trình nuôi dạy con cái. Họ không đặt ra yêu cầu ở con, cũng không hỗ trợ hoặc thể hiện tình yêu thương, sự ấm áp đối với con cái.
Mô hình của Baumrind đã mở màn cho một thời kỳ "sôi sục" trong nghiên cứu và thực hành về làm cha mẹ. Sức ảnh hưởng của nó vẫn lan toả cho tới tận bây giờ trong cả giới nghiên cứu lẫn các nhà thực hành. Tuy nhiên, đây cũng là mô hình chịu rất nhiều những chỉ trích từ các nhà nghiên cứu đặc biệt là trong bối cảnh phi phương Tây, thu hẹp lại là "ngoài Mỹ".
Ít ai biết, năm 1971, Baumrind xác nhận lại giả thuyết ban đầu của mình để cho ra được 4 phong cách làm cha mẹ này là dựa trên nghiên cứu với 133 phụ huynh của trẻ em mẫu giáo ở miền Bắc của bang California. Bà đã sử dụng dữ liệu từ các bảng câu hỏi, phỏng vấn, quan sát và sau đó xếp loại các phụ huynh vào các nhóm làm cha mẹ. Tất nhiên là về sau, Baumrind cùng các nhà nghiên cứu đã cố gắng để mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình ra các bối cảnh khác, và vấn đề cũng xuất hiện từ đây.
Năm 1981, một nhà nghiên cứu là Lewis đã phản biện lại lý thuyết của Baumrind, trong đó Lewis cho rằng mô hình này thực chất phản ánh bản chất của con cái, chứ không phải cha mẹ. Có nghĩa là, việc cha mẹ sử dụng phong cách nuôi dạy nào là do đặc điểm của đứa trẻ. Ví dụ: Với đứa trẻ khó tính sẽ dễ bị kiểm soát và ít ấm áp hơn là những em bé dễ bảo, nghe lời,... Lập luận này của Lewis mở ra một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu về nuôi dạy con cái đó là: Hành vi của cha mẹ thật ra (thường được) quyết định bởi hành vi hoặc đặc điểm của đứa trẻ là phần nhiều.
Thêm vào đó, những lời chỉ trích khác tập trung vào việc phân tích rằng thực tế việc nuôi dạy con cái thường mang tính đặc thù theo lĩnh vực (nghĩa là theo tình huống) vì vậy nó sẽ thay đổi theo các bối cảnh hoặc loại vi phạm khác nhau của trẻ em (Smetana, 2017). Khi cố gắng tạo ra một phân loại mang tính phổ quát, là đã bỏ qua sự ảnh hưởng của các yếu tố như cấu trúc gia đình, văn hoá - xã hội, lịch sử, và các điều kiện về mặt bối cảnh.
Nghiên cứu của Ruth Chao (1994) trên các bà mẹ người Mỹ gốc Đài và Mỹ gốc Âu đã cho thấy rằng khái niệm về "Authoritarian parenting" là không phù hợp với các bà mẹ gốc Đài. Thay vào đó, Chao phát hiện ra một khái niệm mới được các bà mẹ gốc Đài này sử dụng - chịu ảnh hưởng lớn từ dòng chảy văn hoá - lịch sử của Trung Hoa đó là "Chiao Shun + Guan" - là sự kết hợp của 2 đặc điểm là "Đào tạo" và "Quản thúc". Những người mẹ này không thể phân loại vào bất kỳ phong cách nào trong mô hình của Baumrind.
Nghiên cứu định tính của Tony Nguyen và cộng sự (2014) trên các bà mẹ nhập cư gốc Việt tại Úc cũng đã cho thấy: "Mặc dù những bà mẹ này thể hiện sử kiểm soát cao đối với con cái - điều mà dễ dàng bị phân loại thành Authoritarian trong mô hình của Baumrind, nhưng đồng thời họ vẫn thể hiện tình yêu, sự ấm áp và hỗ trợ với con. Vì vậy khó có thể sử dụng mô hình của Baumrind để xếp loại trong trường hợp này".
Thêm vào đó, phong cách độc đoán không phải lúc nào cũng liên quan đến các kết quả tiêu cực, cả trên phương diện cá nhân, xã hội và cả trường học của thanh thiếu niên, đặc biệt là với các mẫu châu Á (Chao, 1994, 2001; Gonzalez và cộng sự, 2001; McBride-Chang & Chang ,1998). Ngay cả đối với nghiên cứu sử dụng các mẫu châu Á, cuộc tranh luận vẫn tiếp tục: một số nghiên cứu đã tìm thấy những tác động có lợi (ví dụ: Leung và cộng sự, 1998) trong khi những nghiên cứu khác tìm thấy những tác động có hại (ví dụ: Chen và cộng sự, 1997) của phong cách này. Các nghiên cứu cũng tìm thấy những kết quả tranh cãi tương tự với phong cách nuôi dạy con nuông chiều.
Cuối cùng, những nỗ lực của một số nhà thực hành khi cố phân loại cha mẹ vào một đặc điểm duy nhất theo mô hình của Baumrind (Dân chủ, Độc đoán, Dễ dãi hay Thờ ơ - bỏ mặc) đã bị chỉ trích. Bởi mô hình của Baumrind nên được nhìn như một "phổ" thay vì một "điểm phân loại". Nghĩa là các cha mẹ có thể sở hữu tất cả các phong cách nuôi dạy con, tuy nhiên nó được biểu hiện theo từng tình huống, khoảng thời gian, và đặc điểm cụ thể của đứa trẻ.
Nghiên cứu nuôi dạy con cái trong bối cảnh Việt Nam
Thông qua một phân tích ngắn về mô hình của Baumrind đã cho chúng ta thấy rằng bản chất của việc nuôi dạy con cái là năng động (Dynamic), tương tác đa hướng (Transactional) và gắn chặt với bối cảnh (Contextualism). Sẽ rất không khả thi nếu nhà nghiên cứu, thực hành chỉ giữ một cái nhìn tuyến tính đơn giản rằng A sẽ gây ra B mà không tính tới các yếu tố khác (trung gian, hoà giải), và đặc biệt là không xem xét bối cảnh mà gia đình đang tồn tại.
Chúng ta cần thêm rất nhiều các nghiên cứu về việc nuôi dạy con cái trong bối cảnh Việt Nam. Những nghiên cứu này có thể đi theo cả hai cách tiếp cận là:
Top-down: Sử dụng một khung lý thuyết có sẵn, ngoại lai, để tìm hiểu và thích ứng trong bối cảnh Việt Nam.
Bottom-up: Phát triển một khung khái niệm bản địa mới, nhưng về bản chất vẫn là khai phá những tri thức bản địa phù hợp với Việt Nam, để sử dụng được cho cha mẹ Việt Nam và đóng góp vào sự hiểu biết toàn cầu về việc nuôi dạy con cái.
Làm nhà nghiên cứu trong lĩnh vực Nghiên cứu gia đình (Tâm lý học), đó là một trong những đau đáu của mình. Chúng ta không thể gom chung Việt Nam vào cụm từ "Cha mẹ Châu Á" trong khi các kết quả nghiên cứu toàn viện dẫn từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan,... văn hoá không chỉ là chiều kích theo "nhóm khu vực" như vậy. Thậm chí "Cha mẹ Việt Nam" cũng là một khái niệm cần được "giải ảo", thực sự cụm từ đó có đại diện cho toàn bộ những người đang hàng ngày nuôi dạy con cái trong những bối cảnh đặc biệt (unique) của họ hay không? Hay chúng ta chỉ đang nhắm tới một bộ phận mà các nghiên cứu, các nhà thực hành (tiện tay) với tới được?
Những câu hỏi này, cần được trả lời, thêm nhiều và nhiều hơn nữa những nghiên cứu như vậy, để rồi sau đó chúng ta có thể sử dụng chúng vào mở rộng thực hành. Làm sao để sự "nhạy cảm với bối cảnh" được gia tăng, thực hành dựa trên các kết quả thực-sự-có-bằng-chứng, và để nhà nghiên cứu lẫn lâm sàng đừng đứng ở ngoài và nhìn vào gia đình bằng một con mắt phán xét thiếu cẩn trọng nữa.
Nguồn tham khảo
Judith G Smetana. Current research on parenting styles, dimensions, and beliefs. 2017.
Ruth K. Chao. Beyond Parental Control and Authoritarian Parenting Style: Understanding Chinese Parenting through the Cultural Notion of Training. 1994.
Tony Nguyen, Paul Chang, Jennifer Loh. The psychology of Vietnamese tiger mothers: Qualitative insights into the parenting beliefs and practices of Vietnamese-Australian mothers. 2014.
------------------
Nguyễn Minh Thành
Nghiên cứu sinh Tiến sĩ Tâm lý học (Bỉ)
Thạc sĩ Khoa học (MS) Tâm lý học Phát triển và Giáo dục (Trung Quốc)
Chuyên gia Tâm lý học Gia đình và Trẻ em
Comentarios