top of page

7 năm đầu đời có thực sự quyết định tất cả?

Khi nhắc đến sự phát triển của trẻ nhỏ, người ta thường nói rằng những cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời diễn ra trước khi trẻ tròn 7 tuổi. Triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle từng nói: “Hãy trao cho tôi một đứa trẻ đến năm 7 tuổi, và tôi sẽ cho bạn thấy người mà nó sẽ trở thành”.


Là một phụ huynh, việc tin tưởng vào giả thuyết này có thể khiến ta không khỏi lo lắng. Liệu nhận thức và sức khoẻ tâm lý của con gái tôi có thật sự được định hình hoàn toàn trong 2.555 ngày đầu đời?


Thế nhưng, cũng giống như các phong cách nuôi dạy con, nhiều lý thuyết về phát triển trẻ em theo thời gian đã trở nên lỗi thời hoặc bị bác bỏ. Chẳng hạn, vào những năm 1940 - 1950, nhiều bác sĩ nhi khoa tin rằng cho trẻ dùng sữa công thức tốt hơn bú mẹ. Cũng không lâu trước đây, nhiều bác sĩ còn cho rằng bế trẻ nhiều sẽ khiến trẻ “bị chiều hư”. Giờ đây, những quan điểm này đều đã bị loại bỏ.


Với bối cảnh đó, ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có nghiên cứu hiện đại nào thật sự chứng minh giả thuyết của Aristotle? Nói cách khác, có “sách hướng dẫn” nào giúp cha mẹ đảm bảo con có một tương lai hạnh phúc và thành công hay không?


Câu trả lời là giống như nhiều khía cạnh khác trong việc làm cha mẹ, không hề đơn giản, càng không có trắng đen rõ ràng. Việc tạo dựng một môi trường an toàn là vô cùng quan trọng, nhưng điều kiện không hoàn hảo như sang chấn sớm, bệnh tật hay chấn thương cũng không nhất thiết sẽ quyết định toàn bộ cuộc đời của một đứa trẻ. 7 năm đầu đời có thể không phải là tất cả, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy đây là giai đoạn quan trọng trong việc hình thành kỹ năng xã hội.

7 năm đầu đời có thể không phải là tất cả, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy đây là giai đoạn quan trọng trong việc hình thành kỹ năng xã hội.

Bộ não phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu đời

Theo dữ liệu từ Đại học Harvard, bộ não phát triển rất nhanh trong những năm đầu tiên. Trước khi bước sang tuổi thứ 3, mỗi phút, trẻ đã hình thành khoảng 1 triệu kết nối thần kinh. Những kết nối này được hình thành từ sự kết hợp giữa yếu tố bẩm sinh và trải nghiệm, đặc biệt là thông qua những tương tác “đáp lại” của người chăm sóc.


Trong năm đầu đời, tiếng khóc là tín hiệu thường thấy để người lớn đáp ứng nhu cầu của trẻ như cho ăn, thay tã hay ru ngủ. Khi trẻ lớn dần, những tương tác đáp lại này có thể diễn ra qua trò chơi đóng vai, trò chơi tưởng tượng hay những khoảnh khắc vui đùa đơn giản. Những tương tác ấy mang thông điệp rằng người lớn đang thực sự chú ý và kết nối, từ đó đặt nền tảng cho cách trẻ học về giao tiếp, quan hệ xã hội và những quy ước trong đời sống.


Khi còn nhỏ, con gái tôi rất thích trò “tắt đèn đi ngủ”. Con sẽ tắt đèn rồi nói “Đi ngủ đi!”, và tôi sẽ nhắm mắt, ngã người ra ghế khiến con cười thích thú. Sau đó con lại bảo “Thức dậy đi!” Tôi làm theo, và chính sự đáp lại đó khiến trò chơi trở nên sống động. Những lần qua lại như thế đã trở thành trái tim của cuộc chơi, và hơn thế, là nền tảng cho mối liên hệ giữa hai mẹ con.


Chuyên gia trị liệu Hilary Jacobs Hendel, người nghiên cứu chuyên sâu về gắn bó và sang chấn, nói rằng: “Các neuron cùng kích hoạt thì sẽ kết nối với nhau. Các kết nối thần kinh giống như bộ rễ của cái cây - là nền móng cho mọi sự phát triển sau này.”


Nghe vậy, nhiều cha mẹ có thể lo sợ rằng những căng thẳng trong cuộc sống, như tài chính, mâu thuẫn hôn nhân, hoặc bệnh tật,… sẽ làm gián đoạn những tương tác cần thiết ấy và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con. Tuy nhiên, việc thi thoảng “bỏ lỡ” những dấu hiệu giao tiếp không khiến một đứa trẻ phát triển lệch lạc. Vấn đề nằm ở chỗ nếu những căng thẳng ấy kéo dài và khiến cha mẹ mất kết nối thực sự với con, thì mới đáng lo ngại.


Để giảm thiểu điều này, cha mẹ có thể học cách thực hành Mindfulness, tức là hiện diện trọn vẹn trong khoảnh khắc. Khi tập trung vào hiện tại và giảm bớt những xao nhãng, cha mẹ sẽ dễ dàng nhận ra nhu cầu kết nối từ con. Đây là kỹ năng quan trọng vì những tương tác “đáp lại” có ảnh hưởng đến kiểu gắn bó của trẻ, từ đó ảnh hưởng đến mối quan hệ sau này.


Kiểu gắn bó ảnh hưởng đến cách xây dựng các mối quan hệ trong tương lại

Khái niệm về các kiểu gắn bó bắt nguồn từ công trình nghiên cứu của nhà tâm lý học Mary Ainsworth vào năm 1969. Trong thí nghiệm “Tình huống lạ”, bà quan sát phản ứng của trẻ khi mẹ rời khỏi phòng và trở lại. Từ đó, Ainsworth phân loại bốn kiểu gắn bó: Gắn bó an toàn; Gắn bó bất an - lo âu; Gắn bó bất an - né tránh; và Gắn bó rối loạn.


Trẻ có gắn bó an toàn sẽ buồn khi người chăm sóc rời đi, nhưng dễ dàng được xoa dịu khi họ quay lại. Trẻ bất an - lo âu thì bám riết và khó bình tĩnh, còn trẻ bất an - né tránh lại tỏ ra dửng dưng. Với gắn bó rối loạn, thường xảy ra ở những trẻ từng bị bạo hành, việc cảm nhận sự an toàn khi có người lớn chăm sóc là điều rất khó khăn.


Chuyên gia Hendel chia sẻ: “Nếu cha mẹ đủ tốt trong việc điều chỉnh và đáp ứng cảm xúc cho con khoảng 30% thời gian, trẻ vẫn có thể phát triển kiểu gắn bó an toàn. Kiểu gắn bó này chính là khả năng phục hồi trước những thách thức của cuộc sống”.


Những đứa trẻ có gắn bó an toàn có thể buồn khi cha mẹ rời đi, nhưng vẫn cảm thấy được an ủi bởi người lớn khác. Khi cha mẹ quay lại, trẻ vui mừng chào đón. Điều này thể hiện rằng trẻ đã học được sự tin cậy trong các mối quan hệ. Trẻ lớn lên biết tìm đến những người đáng tin cậy như cha mẹ, thầy cô, bạn bè để được dẫn dắt và hỗ trợ khi cần.


Kiểu gắn bó được hình thành rất sớm trong cuộc đời và ảnh hưởng đến sự hài lòng trong các mối quan hệ ở tuổi trưởng thành. Nhiều người lớn từng có kiểu gắn bó bất an do cha mẹ chỉ chăm lo nhu cầu vật chất mà thiếu kết nối cảm xúc. Họ thường sợ thân mật và có xu hướng đẩy người khác ra xa để tự bảo vệ mình. Người có gắn bó bất an - lo âu lại sợ bị bỏ rơi và trở nên nhạy cảm quá mức với sự từ chối.


Tuy nhiên, một kiểu gắn bó không định đoạt cuộc đời. Nhiều người dù không có khởi đầu an toàn vẫn có thể thay đổi khi được trị liệu và chữa lành.


7 tuổi là thời điểm con bắt đầu kết nối "các mảnh ghép"

Dù 7 năm đầu không quyết định trọn vẹn hạnh phúc suốt đời, nhưng đây là giai đoạn bộ não phát triển mạnh mẽ, đặt nền móng cho cách trẻ giao tiếp và phản ứng với thế giới thông qua việc xử lý cách người khác đáp lại mình.


Khi bước vào lớp Một hoặc lớp Hai, trẻ bắt đầu tách khỏi cha mẹ để xây dựng những tình bạn đầu tiên. Trẻ cũng dần có nhu cầu được bạn bè chấp nhận và bắt đầu biết diễn đạt cảm xúc một cách rõ ràng hơn.


Khi con gái tôi lên 7, con đã có thể bày tỏ mong muốn tìm một người bạn thật tốt. Con cũng bắt đầu kết nối các khái niệm để diễn đạt cảm xúc. Có lần tôi không cho con ăn kẹo sau giờ tan học, con gọi tôi là “người làm tan vỡ trái tim”. Khi tôi hỏi “người làm tan vỡ trái tim” nghĩa là gì, con trả lời: “Là người khiến mình buồn vì không cho mình cái mình muốn”.


Trẻ 7 tuổi cũng có khả năng diễn đạt ý tưởng bằng ẩn dụ, thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng. Một hôm, con tôi hỏi: “Mưa khi nào thì ngừng nhảy múa vậy mẹ?” - trong trí tưởng tượng của con, những giọt mưa đang nhảy múa thật sự.


Liệu làm cha mẹ đủ tốt có đủ tốt?

Nghe thì có vẻ không hề lý tưởng hay hấp dẫn như các diễn ngôn làm cha mẹ khác, nhưng làm cha mẹ “đủ tốt”, tức là đáp ứng các nhu cầu cơ bản cả về thể chất và cảm xúc như nấu ăn, đưa trẻ đi ngủ, an ủi khi buồn bã, và chia sẻ niềm vui, lại chính là điều giúp bộ não trẻ hình thành những kết nối lành mạnh.


Và chính những kết nối ấy là nền tảng cho kiểu gắn bó an toàn, giúp trẻ phát triển các cột mốc quan trọng một cách vững vàng. Ở ngưỡng bước vào giai đoạn tiền thiếu niên, nhiều trẻ 7 tuổi đã hoàn thành phần lớn các nhiệm vụ phát triển ở tuổi thơ, sẵn sàng bước sang chặng đường kế tiếp.


Là cha mẹ, chúng ta không thể kiểm soát mọi thứ ảnh hưởng đến cuộc sống của con, nhưng có một điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể làm “là hiện diện và trở thành một người lớn đáng tin cậy”. Khi ta cho con thấy cách mình đối diện với cảm xúc lớn, thì sau này, khi con trải qua những đổ vỡ trong tình cảm, áp lực công việc, hay những nỗi đau riêng, con sẽ nhớ lại cách cha mẹ từng phản ứng. Và từ đó, con sẽ biết mình nên bắt đầu từ đâu.


Nguồn tham khảo

  • Nguồn bài viết: Bài đăng tại healthline, được viết bởi Juli Fraga, Psy.D.

  • Dịch và tổng hợp: Family & Child Psychology with Nguyen Minh Thanh

------------------

Nguyễn Minh Thành

Nghiên cứu sinh Tiến sĩ Tâm lý học (Bỉ)

Thạc sĩ Khoa học (MS) Tâm lý học Phát triển và Giáo dục (Trung Quốc)

Chuyên gia Tâm lý học Gia đình và Trẻ em

Bình luận


bottom of page